Sáng 1/11, sau hơn một tháng xét xử và nghị án, TAND TP HCM đưa ra phán quyết đối với yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Đức An (61 tuổi, Việt kiều Mỹ) và đơn phản tố của Phạm Thị Ngọc Thúy (43 tuổi, siêu mẫu Ngọc Thúy) trong vụ tranh chấp tài sản kéo dài 13 năm.
Sau hơn 7 giờ xác định nội dung và quá trình tố tụng của vụ án, HĐXX cho rằng, ông An không đưa ra được chứng cứ chứng minh đã gửi cho Ngọc Thúy 13 triệu USD, chỉ cung cấp được các giấy chuyển tiền thể hiện 3 triệu USD và 700.000 USD… Số tiền còn lại nguyên đơn trình bày “đưa tiền mặt để mua tài sản” nhưng bị đơn không thừa nhận nên không có căn cứ xác định.
Trong khi đó, khối tài sản tranh chấp là được hình thành trong thời kỳ hôn nhân nên là tài sản chung của hai vợ chồng.
Mục 3 Chương III Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định về Chế độ tài sản của vợ chồng như sau:
“Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng
- Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
- Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
- Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.”
“Điều 43. Tài sản riêng của vợ, chồng
- Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.
- Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này.”
Như vậy, tài sản của ông An và bà Thúy được hình thành trong thời kì hôn nhân được xác định là tài sản chung của vợ chồng. Ông An cho rằng một trong số các tài sản được liệt kê là tài sản riêng của mình, tuy nhiên không có đủ căn cứ để chứng minh nên Tòa vẫn xác định đó là tài sản chung của vợ chồng.
Tài sản chung sẽ được chia ra sao?
Nguyên đơn đề nghị chia theo tỷ lệ: ông An nhận 70%, Ngọc Thúy 30% – đối với một số tài sản; còn một số bất động sản và cổ phần tại Công ty Bình Minh ở Vũng Tàu là của riêng ông An. Ông An muốn được nhận tài sản, sẽ trả cho Ngọc Thúy số tiền tương đương với giá trị cô được nhận.
Trong khi đó, phía Ngọc Thúy không đồng ý, cho rằng đây là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nên đề nghị chia đôi. Và Ngọc Thúy cũng muốn nhận tài sản, sẽ thanh toán 50% giá trị cho ông An.
Đánh giá bà Thúy là người Việt Nam, thực hiện phần lớn các giao dịch nên có công sức đóng góp trong việc tạo lập tài sản, sau khi ly hôn là người quản lý tài sản chung.
“Như vậy, bị đơn có nhiều công sức đóng góp hơn, hơn nữa đang trực tiếp nuôi 2 con chung, nên đáng lẽ phải được hưởng nhiều hơn. Tuy nhiên, bị đơn đề nghị chia đôi nên tòa ghi nhận yêu cầu này – chia đôi tài sản cho các bên”, HĐXX nêu quan điểm.
Tài sản chung của ông An và bà Thúy gồm nhiều loại, trong đó có bất động sản, cổ phần tại công ty, tiền mặt,… Theo quy định của LHN&GĐ 2014:
“Điều 62. Chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn
- Quyền sử dụng đất là tài sản riêng của bên nào thì khi ly hôn vẫn thuộc về bên đó.
- Việc chia quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn được thực hiện như sau:
- a) Đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, nếu cả hai bên đều có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì được chia theo thỏa thuận của hai bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định tại Điều 59 của Luật này.
Trong trường hợp chỉ một bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng nhưng phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà họ được hưởng;
- b) Trong trường hợp vợ chồng có quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản chung với hộ gia đình thì khi ly hôn phần quyền sử dụng đất của vợ chồng được tách ra và chia theo quy định tại điểm a khoản này;
- c) Đối với đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở thì được chia theo quy định tại Điều 59 của Luật này;
- d) Đối với loại đất khác thì được chia theo quy định của pháp luật về đất đai.
- Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà không có quyền sử dụng đất chung với hộ gia đình thì khi ly hôn quyền lợi của bên không có quyền sử dụng đất và không tiếp tục sống chung với gia đình được giải quyết theo quy định tại Điều 61 của Luật này.”
“Điều 64. Chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh
Vợ, chồng đang thực hiện hoạt động kinh doanh liên quan đến tài sản chung có quyền được nhận tài sản đó và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản mà họ được hưởng, trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác.”
Theo đó, Tòa chia đôi giá trị của 15 tài sản được xác định là tài sản chung. Bên nhận tài sản có trách nhiệm thanh toán lại 50% giá trị tương đương của tài sản đó cho bên còn lại. Các khoản hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản chung cũng được chia theo nguyên tắc 50/50. Các tài sản khác nếu không đủ căn cứ chứng minh sẽ không được đưa vào để chia tài sản.